(Xây dựng) – Với chủ trương dành nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, thời gian qua, công tác đầu tư hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội nói chung, du lịch nói riêng ngày càng được quan tâm. Nhiều tỉnh, thành cũng đã tranh thủ mọi nguồn lực nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc phát triển du lịch và đã đạt được những kết quả khả quan. Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo điện tử Xây dựng đã có trao đổi với ông Hà Văn Siêu - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch).
PV: Ông có đánh giá như thế nào về phát triển hạ tầng du lịch đối với Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gắn với phát triển du lịch bền vững?
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu: Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020 tầm nhìn đến 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2473/QĐ-TTg và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến 2020 tầm nhìn đến 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 201/QĐ-TTg đều khẳng định, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn có tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và mục tiêu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp. Đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển.
Quan điểm trọng tâm có tính đột phá trong Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đó là: Chuyển từ phát triển trên diện rộng sang phát triển theo chiều sâu; phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh. Đây là quan điểm định hướng cho sự phát triển của du lịch Việt Nam trong giai đoạn tới, trên cả bình diện quốc gia và từng vùng, từng địa phương.
Để đưa du lịch Việt Nam phát triển trở thành ngành mũi nhọn, trước mắt, ngành du lịch đề xuất cần cải thiện mức độ ưu tiên về nguồn lực tài chính, nâng cao hiệu quả xúc tiến du lịch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và tạo điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục nhập cảnh.
Về dài hạn, Tổng cục Du lịch sẽ tập trung triển khai thực hiện các chương trình, đề án cụ thể nêu trong dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW. Trong đó, ưu tiên cải thiện hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch, nâng cao sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch, bảo đảm tính bền vững về môi trường, bảo đảm an ninh và an toàn, vệ sinh và phát triển nguồn nhân lực du lịch đủ năng lực.
Việt Nam với 3.260km bờ biển, 125 bãi biển lớn nhỏ, hàng ngàn cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hoá trải rộng khắp cả nước… nếu được đầu tư tốt về hạ tầng, chắc chắn ngành du lịch Việt Nam sẽ cất cánh. Đầu tư vào du lịch tăng cả về số lượng và chất lượng với nhiều dự án lớn từ các nhà đầu tư chiến lược như SunGroup, VinGroup, FLC, Vina Capital… Nhiều doanh nghiệp du lịch được thế giới bình chọn, vinh danh là khách sạn, khu nghỉ dưỡng sang trọng nhất thế giới.
Nhiều chuỗi khách sạn hiện đại, tiêu chuẩn quốc tế đã được đầu tư tại các điểm du lịch trọng điểm, như chuỗi khách sạn Vinpearl Nha Trang, Phú Quốc, Hạ Long, hệ thống cáp treo tại Đà Nẵng, Sa Pa, Hạ Long…
Nhiều thương hiệu quốc tế lớn về du lịch đã có mặt tại Việt Nam như Accor, Marriot, Hyatte, Intercontinental, HG, Four Seasons… góp phần nâng cao năng lực quản trị và chất lượng của du lịch nước ta.
Thực hiện Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, giai đoạn vừa qua ngành Du lịch đã có bước tăng trưởng vượt bậc cả về quy mô, tính chất và diện bao trùm.
Một số chỉ tiêu đạt được vượt xa so với mức đã dự báo từ 2010. Cụ thể như lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng gấp hơn 2,5 lần, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 12,9 triệu lượt năm 2017, trung bình tăng 14,5% năm (đặc biệt năm 2017 tăng tới 29,1% so với 2016). Khách du lịch nội địa tăng gấp 2,6 lần, từ 28 triệu lượt năm 2010 lên 73,2 triệu lượt năm 2017, tăng trung bình 14,6%. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ 2010 lên 510.000 tỷ năm 2017, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp.
Nguồn lực đầu tư, lực lượng doanh nghiệp và nhân lực du lịch ngày càng lớn mạnh; quy mô cơ sở lưu trú tăng từ 12.350 cơ sở năm 2010 lên 22.000 cơ sở năm 2017, đặc biệt cơ sở lưu trú cao cấp 4-5 sao chiếm tỷ trọng ngày càng lớn; hệ thống điểm đến có quy mô tầm cỡ quốc gia và quốc tế đã hình thành với cơ sở cung cấp dịch vụ ngày càng đa dạng. Thành tựu thực tế du lịch mang lại thu nhập, tạo việc làm, thúc đẩy lan tỏa phát triển các ngành, lĩnh vực liên quan, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống xã hội, tăng cường hữu nghị, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường đang từng bước khẳng định du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
PV: Đảng và Nhà nước xác định phát triển du lịch là lĩnh vực mũi nhọn, vậy với vai trò của mình, Tổng cục Du lịch có những tham mưu như thế nào cho các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm khai thác tối đa tiềm năng và hiệu quả của ngành du lịch?
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu: Đảng và Nhà nước đang từng bước có những quan tâm thực sự bằng việc ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị để thúc đẩy du lịch phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Luật Du lịch 2017 thể hiện mạnh mẽ tư tưởng và quan điểm thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Trong bối cảnh đó, du lịch Việt Nam đang đứng trước những cơ hội to lớn đi liền với những thách thức không nhỏ khi đón bắt xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ của du lịch toàn cầu, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái bình dương với thị trường khổng lồ Trung Quốc và trong kỷ nguyên số với tác động phi thường của cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần xây dựng Chiến lược phát triển du lịch mới với những quan điểm và tầm nhìn phù hợp thời đại.
Phát huy tối ưu những tiềm năng, thế mạnh của đất nước và khắc phục cho được những hạn chế yếu kém của giai đoạn vừa qua đồng thời với việc đón bắt cơ hội và vượt qua thách thức, đặt ra yêu cầu xây dựng chiến lược phát triển du lịch phải hóa giải được những nút thắt, định hình được hướng đi và tầm vóc của một ngành kinh tế mũi nhọn:
Một là, nhất thiết phải thay đổi quan điểm, tư duy về cách làm du lịch, từ hệ quản lý, ứng xử với tài nguyên, tổ chức kinh doanh cho đến phục vụ và giao tiếp với khách du lịch: Quan điểm đặt khách du lịch vào vị trí trung tâm, mọi nỗ lực đều hướng tới sự hài lòng của khách; quan điểm cạnh tranh bằng chất lượng với sự sáng tạo, khác biệt và cảm xúc trong sản phẩm du lịch; quan điểm hiệu quả thực dụng về sử dụng nguồn lực hợp lý bền vững tương xứng với lợi ích mang lại cho người cung cấp dịch vụ và trải nghiệm của du khách; quan điểm toàn diện với tính nhân văn du lịch cho mọi người; du lịch trở thành một nội dung nhân quyền và chất lượng cuộc sống; thông qua du lịch góp phần hướng tới công bằng xã hội và không ai bị bỏ lại phía sau.
Hai là, du lịch Việt Nam phải coi trọng lợi ích của người dân Việt Nam, ở phương diện này là chủ nhân của điểm đến và ở phương diện khác là khách du lịch: Nhất thiết phải tôn trọng, phát huy giá trị văn hóa bản địa; lấy lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương làm trọng; mọi hoạch định, chương trình hành động đều xuất phát từ nhu cầu và vì lợi ích của họ; du lịch phải dựa vào cộng đồng và gắn với phát triển kinh tế địa phương; lấy văn hóa Việt Nam, văn hóa vùng, miền (kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố truyền thống với hiện đại) là nền tảng thế mạnh và là vũ khí chiến lược tạo sự khác biệt, thương hiệu riêng cho du lịch Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế;
Ba là, cần phải xác lập mục tiêu phát triển thể hiện được chức năng kinh tế đồng thời với chức năng xã hội của du lịch: Mục tiêu tổng quát du lịch phải là bàn đạp để thúc đẩy phát triển bền vững các ngành kinh tế liên quan đồng thời tạo ra môi trường xã hội hài hòa, tiến bộ và phát triển toàn diện; phát huy giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc, khơi dậy tinh thần và niềm tự hào, tự tôn dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước; góp phần xây dựng, định hình giá trị đạo đức xã hội, giá trị cuộc sống và tiêu chí chất lượng cuộc sống;
Bốn là, phải xác định được tầm nhìn phát triển dài hạn với tầm vóc của một ngành kinh tế mũi nhọn: Du lịch trở thành động lực chính cho phát triển các ngành, lĩnh vực toàn xã hội; thu hút nguồn lực và sự quan tâm của mọi mặt đời sống xã hội và tạo ra tổng sản phẩm xã hội có sức lan tỏa lớn nhất; tầm nhìn phát triển phải được đặt trong bối cảnh và xu hướng phát triển chung của khu vực và trên thế giới, tham gia một cách chủ động vào chuỗi giá trị du lịch toàn cầu; xác định được hướng đi với những dấu mốc then chốt định hình quỹ đạo phát triển của ngành du lịch trong tương lai.
Năm là, phải đưa ra được các nhóm giải pháp chiến lược, trong đó yêu cầu xác định được nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ ưu tiên để có phương cách ứng xử thích hợp đối với cấp quốc gia, cấp vùng và từng địa phương; phát triển hạ tầng hiện đại và mở rộng kết nối toàn cầu; xúc tiến quảng bá luôn phải đi liền với đổi mới sáng tạo và đảm bảo chất lượng điểm đến và sản phẩm, dịch vụ thông qua phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; yêu cầu cần có đủ năng lực để tranh thủ tối đa thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 ứng dụng trong du lịch thông minh và kinh tế chia sẻ, tạo được sự cộng hưởng lan tỏa du lịch cả nước và với các ngành, lĩnh vực; phát triển du lịch nội địa tạo nền tảng ổn định thị trường dựa trên hệ giá trị Việt, đồng thời với phát triển du lịch quốc tế qua đó khẳng định vị thế và thương hiệu điểm đến quốc gia Việt Nam; kiểm soát hoạt động du lịch trong nước và du lịch ra nước ngoài nhằm định hướng đúng hệ giá trị thụ hưởng du lịch cho người Việt, bảo vệ quyền và lợi ích của du khách Việt.
Sáu là, về chiến lược tổ chức triển khai phải cam kết có được sự quyết tâm, quyết liệt của mọi cấp, mọi ngành hợp sức xung quanh ngành Du lịch; hợp tác công-tư, các bên cùng có lợi cần trở thành phương châm chủ đạo, trong đó nhà nước tạo cơ hội bình đẳng cho khu vực tư nhân; ngược lại khu vực tư nhân chủ động tham gia vào quá trình hoạch định thể chế, chính sách; phân định và phát huy đúng vai trò quản lý nhà nước với vai trò đầu tư phát triển, khởi nghiệp sáng tạo của doanh nghiệp và người dân; tăng cường tư vấn kỹ thuật và kết nối-tương tác giữa các bên thông qua ứng dụng số trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0; khắc phục cho được xung đột về lợi ích liên ngành, địa phương và tạo lập môi trường hợp tác cạnh tranh lành mạnh.
Với những luận điểm xuất phát từ thực tế phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn vừa qua, kinh nghiệm của quốc tế và những kỳ vọng về tính chất mũi nhọn mà ngành Du lịch hướng tới, tin tưởng rằng việc xây dựng chiến lược phát triển đáp ứng được những yêu cầu nêu trên chắc chắn sẽ tạo ra được sự chuyển biến căn bản về chất lượng tăng trưởng du lịch trong giai đoạn tới.
Đà Nẵng là một trong những thành phố nhanh nhạy trong việc tranh thủ mọi nguồn lực nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc phát triển du lịch và đã đạt được những kết quả khả quan.
PV: Dưới góc độ quản lý, ông có những đánh giá như thế nào về quy hoạch của các khu nghỉ dưỡng, khu du lịch… hiện nay. Liệu sự phát triển này đã đúng và phù hợp với các quy định của pháp luật?
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu: Hành động từ Tổng Cục Du Lịch Việt Nam: Rà soát chất lượng cơ sở lưu trú du lịch bao gồm cả cơ sở du lịch biển, kiểm soát chặt chẽ tình trạng chất lượng phục vụ và thu hồi sao nếu không đạt chất lượng.
Chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ các cơ sở lưu trú du lịch đẩy mạnh và duy trì hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề và thái độ ứng xử cho nhân viên, năng lực quản trị khách sạn, khắc phục tình trạng thiếu hụt và yếu kém về nhân lực tại các cơ sở lưu trú du lịch.
Tổ chức thông tin, quảng bá về các cơ sở có chất lượng tốt để tôn vinh và khuyến khích thị trường lựa chọn và ngược lại thông qua truyền thông gửi thông điệp rõ ràng về những cơ sở chất lượng kém để bảo đảm quyền lợi cho du khách. Đồng thời thiết lập đường dây cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin phản hồi từ khách du lịch.
Việc đầu tư cho hệ thống cơ sở lưu trú chất lượng cao, theo đánh giá của các chuyên gia đã đem lại hiệu quả kinh doanh tốt hơn cho ngành du lịch và phù hợp với định hướng phát triển theo chiều sâu. Theo đó, du khách cũng có nhiều sự lựa chọn phù hợp với khả năng kinh tế và nhu cầu nghỉ dưỡng có chất lượng tốt.
Trân trọng cảm ơn ông!